Top 11 # Xin Học Bổng Tiến Sĩ Ở Canada Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 4/2023 # Top Trend | Phusongyeuthuong.org

Một Số Chiến Lược Xin Học Bổng Tiến Sĩ Và Sau Tiến Sĩ Ở Nước Ngoài

Muốn có chiến lược tốt, bạn phải dựa trên những nguyên tắc căn bản tốt. Tuỳ vào hoàn cảnh, vị trí của các bạn mà sử dụng một hay nhiều nguyên tắc để hình thành nên các chiến lược khác nhau. Cốt lõi của những chiến lược tốt để tìm lab, xin học bổng, xin postdoc, theo tôi phải dựa trên những nguyên tắc sau:

Nguyên tắc 0: Đánh giá được bản thân

Việc đánh giá được mức độ cạnh tranh của bản thân trước mọi cuộc ganh đua là một điều quan trọng bậc nhất. Muốn đánh giá tốt bản thân mình, các bạn phải biết so sánh mình với người khác một cách hợp lý. Điều này tưởng chừng đơn giản, nhưng khá khó, vì dễ bị chủ quan. Một cách khách quan là bạn nên hỏi han một số anh chị/ bạn bè có kinh nghiệm, xin ý kiến về mức độ cạnh tranh của mình.

Các bạn nên nhớ khi đi xin vào bất kỳ một lab nào, điều quan trọng nữa [từ việc đánh giá tốt bản thân] là bạn phải biết cách “show off your skills”. Các Giáo sư (GS) mong muốn tìm người có kĩ năng [như viết code, scripts dùng thiết bị, lắp ráp, chế tạo dụng cụ], có khả năng tự nghiên cứu và trình bày tốt, có khả năng giao tiếp, trao đổi với đồng nghiệp và bạn bè.

Cách chứng minh tốt nhất cho điều này là bạn phải có kinh nghiệm nghiên cứu (công bố trên tạp chí, hội nghị quốc tế), và thư giới thiệu từ chính người hướng dẫn của bạn. Điểm số như GRE, Toefl, hay gì đó là quan trọng đối với trường nhận bạn; còn đối với GS, họ lưu ý nhiều tới những thông tin mà cho thấy rõ ràng kĩ năng và khả năng nghiên cứu tốt.

Nguyên tắc 1: Nghiên cứu kỹ lưỡng các lab trước khi bày tỏ ý muốn gia nhập

Nếu các bạn nghĩ càng gửi vào nhiều lab thì xác suất thành công của bạn càng cao, thì theo tôi là khá sai lầm. Điều này xuất phát từ nhiều yếu tố như thiếu kiên nhẫn, nóng lòng muốn xin được một vị trí, do đó gần như ai cũng mắc lỗi này lúc đầu. Lỗi này nhiều khi nghiêm trọng tới mức bạn được nhận vào một lab rất tệ, rất khó xin việc sau này. Vì thế việc dành thời gian tìm hiểu kĩ lưỡng về các trường, các khoa, các GS giúp bạn rất nhiều thứ:

(1) Rút gọn số lượng các trường mà bạn nghĩ là cạnh tranh được. Như tôi, tôi thường chọn 4-5 trường hay lab lúc đầu. Nếu thất bại, thì thử các lab tiếp theo, chứ không gửi đi một loạt 20 hay 50, thậm chí là 100 lab, hay công ty.

Với số lượng trên 20 hồ sơ bạn gửi đi, thì chắc chắn chúng sẽ đem lại cho bạn cảm giác thất bại rất lớn. Thay vào đó, gửi từng số nhỏ (4-5) một hay thậm chí là từng lab/trường/công ty trong từng tuần. Thường các lab sẽ trả lời sớm cho bạn biết, các trường hay công ty thì lâu hơn.

(2) Cho bạn thêm thời gian để hoàn thiện các yếu tố như Cover Letter, CV, Research Statements, v.v, sau một vài lần bị từ chối. Nếu làm liên tục trong vài tháng tới con số 20 hồ sơ mà đều bị từ chối thì bạn nên dừng lại. Vì có điều gì đó không ổn trong hồ sơ của bạn.

(3) Networking. Khi các bạn tìm hiểu kĩ, bạn sẽ tìm được thêm bạn bè, hay tìm được người để hỏi han, giúp bạn đánh giá tốt hơn về hồ sơ.

(4) Không nên gửi hồ sơ cho nó có vì điều này chỉ mang lại cho bạn cảm giác thất bại nhiều hơn, buồn chán nhiều hơn mà thôi.

Nguyên tắc 2: Tránh ùa theo đám đông

Nếu các bạn hiểu Nguyên tắc 1, thì các bạn cũng sẽ thấy rõ tại sao bạn không nên ùa theo đám đông gửi hồ sơ cho một vài lab mới có tuyển dụng. Nếu bạn nghiên cứu kĩ lưỡng về lab đó, biết mình phù hợp thì gửi, còn nếu có cảm giác không hợp lắm, thì STOP. Việc “ùa theo đám đông” cũng chỉ đem lại cho bạn thêm cảm giác thất bại thôi.

Phần lớn các GS làm như sau: chỉ cần 30 giây là biết bạn có thích hợp với lab không, 20 phút để biết khả năng của các bạn tới đâu, rồi sẽ rút gọn tới 3-5 candidates; dành vài ngày suy nghĩ, rồi mới quyết định gửi email tới 1-3 người tốt nhất. Nên nếu các bạn gửi hồ sơ mà không chuẩn bị kĩ lưỡng, mà Ùa theo đám đông thì xác suất bị OUT rất cao.

Nguyên tắc 3: Viết CV thích hợp và Cover letter thật tốt

Nếu các bạn gửi hồ sơ sang Bắc Mỹ thì CV phải theo kiểu Bắc Mỹ. Trong CV làm rõ kinh nghiệm, kỹ năng, công bố trên tạp chí nào, hay đang trong tình trạng bình duyệt hay đang được viết.

Cover letter (thư giới thiệu) thì phải viết rõ ràng cho từng lab, đưa ngay ra thành tựu của mình, kĩ năng của mình, cho người đọc (GS) thấy là mình phù hợp với lab. Thư giới thiệu không được viết quá dài, nên khoảng 300-500 chữ.

Nếu bạn tìm hiểu kĩ lượng về lab đó, viết cũng sẽ dễ hơn, vì bạn phải chứng minh với lượng số chữ đó, bạn là người phù hợp với lab đó, để xin phỏng vấn (qua Skype, hay được mời trực tiếp).

Nguyên tắc 4: Be very nice (Dễ mến và lịch sự)

Trong bất kỳ tình huống nào, gặp mặt trực tiếp hay trao đổi qua email, bạn cũng phải biết dùng ngôn ngữ một cách lịch thiệp. Bạn viết cho sinh viên, postdoc trong lab đó thì bạn cũng phải lịch sự. Xin ý kiến của các anh chị có kinh nghiệm cũng phải lịch sự. Tôi hay mời cà phê cho ai giúp tôi cái gì đó, bạn cũng nên thử để cho thấy bạn nghiêm túc khi tiếp xúc hay xin ý kiến.

Nguyên tắc 5: Chủ động kết nối

Nếu bạn tham gia hội nghị, hội thảo, thì phải chủ động kết nối, viết email thật nice, thật lịch sự, để xin gặp, xin phỏng vấn trực tiếp. Bạn nên biết nhiều anh chị (rất giỏi) mà cũng phải làm như vậy, và nhiều người xin được vào làm Postdoc hay PhD ở những lab rất tốt nhờ gặp vài lần ở hội thảo hội nghị đó.

Nguyên tắc 6: Chuẩn bị và chuẩn bị

Nếu bạn thiếu bất kỳ kĩ năng nào như viết CV, Cover letter, Research Statement (báo cáo nghiên cứu), hay kĩ năng nghiên cứu, thì bạn phải dành đủ thời gian chuẩn bị tốt những gì bạn viết trước khi gửi hồ sơ đi. Nếu thời gian chuẩn bị là 2 năm, thì dành hẳn hai năm trước khi tin là mình cạnh tranh được. Vì một khi bạn chuẩn bị tốt, dù mất hai năm, nhưng bạn chỉ cần thành công một lần là đủ, với học bổng $20.000 – $30.000/năm cho PhD.

Nhớ điều này: “May mắn chỉ ở lại với những ai chuẩn bị nó tốt nhất”.

Nguyên tắc 7: Chấp nhận và hiểu rõ thất bại

Đôí với tôi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong cuộc sống nói chung. Con đường mà chúng ta đi, đôi khi sẽ bị vấp ngã hay đầy rẫy sai lầm. Gần như không ai không thất bại khi tìm kiếm hướng đi, một giải pháp, một cuộc sống mới, một nghề nghiệp mới.

Chính những người không thất bại lại là những người khó học được bài học của thất bại là sự khiêm tốn, sự ham học hỏi và sự kiên trì. Chấp nhận và hiểu rõ thất bại mới giúp chúng ta thành công hơn, và gặt hái được những thành quả cuối cùng, quan trọng nhất. Thất bại mớí làm tôi hiểu rõ tầm quan trọng của 7 nguyên tắc trên.

Steve Jobs nói “stay hungry, stay foolish” có nghĩa chúng ta phải ham học hỏi (vì đói kiến thức chứ không phải vì no nê), phải chấp nhận sai lầm (vì không biết trước điều gì sẽ làm chúng ta trở nên ngốc nghếch lúc ban đầu) để trở nên khôn ngoan hơn nhờ học được bài học của sự thất bại.

TS. Ngô Anh Văn (Nghiên cứu sau tiến sĩ Đại học Calgary, Canada)

Kinh Nghiệm Xin Học Bổng Đi Du Học Ở Pháp, Trình Độ Thạc Sĩ Và Tiến Sĩ

Với các bạn sinh viên dược, Pháp là một trong những điểm đến lý tưởng cho việc tiếp tục trau dồi kiến thức ở những bậc học sau Đại học. PharmSchoolar xin giới thiệu bài viết của bạn Tống Phước Bảo Việt – người đã hoàn thành khóa học thạc sỹ và hiện đang theo tiếp chương trình tiến sĩ tại Pháp. Những bạn nào quan tâm có thể liên lạc qua email (được cung cấp ở cuối bài viết) để hỏi thêm bạn Việt

Lúc học phổ thông, không giỏi ngoại ngữ nên chưa bao giờ mình có ý định sẽ học lên thạc sĩ và cũng không nghĩ rằng mình sẽ có cơ hội đi du học.

Lên đại học, điểm phẩy của mình nằm trong nhóm trung bình khá, và khó có ai nghĩ rằng với số điểm này sẽ được nhận học bổng du học.

Cuối năm 2 đại học, bắt đầu học tiếng Pháp theo phong trào, vì trong lớp ai cũng học hai ngoại ngữ trở lên. Nhưng không ngờ mình bắt đầu thích tiếng Pháp và tiếng Pháp theo mình từ đó. Có lẽ vì khi mình học ngôn ngữ Pháp, mình có cơ hội học được văn hóa của một đất nước cụ thể ( Pháp) ( Mình nghĩ rằng nhiều nước sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ chính quá nên không biết học văn hóa của nước nào, dẫn đến không có đam mê tiếng Anh). Từ đó mình tham gia vào rất nhiều hoạt động, cuộc thi bằng tiếng pháp và có lẽ đây là điểm nhấn của mình trong CV và là nguồn động lực của mình để quyết tâm đi du học Pháp.

a.Không bao giờ từ bỏ hy vọng chỉ vì điểm số ở trường, vì điểm số chỉ là một tiêu chí xét duyệt học bổng thôi. Tất nhiên điểm số càng cao thì sẽ là một lợi thế, nhưng không phải là điều bắt buộc.

2. Xin học bổng thạc sĩ ở Pháp

Để xin được học bổng thì tiêu chí đầu tiên là bằng ngoại ngữ. Để đi du học Pháp, thường các trường yêu cầu bằng từ B1 trở lên nhưng như mình nêu ở trên, do điểm số của mình không được cao nên mình quyết tâm lấy bằng B2 để có một lợi thế khi xét học bổng. Tất nhiên để học lấy bằng ngoại ngữ thì rất tốn thời gian nên mình đã quyết tâm lấy bằng trước năm cuối đại học, để sau đó dành toàn bộ thời gian cho việc làm hồ sơ học bổng.

Ngay từ giữa năm 4 đại học, mình đã tìm hiểu nhiều nguồn học bổng khác nhau và quy trình để xin từng học bổng. Năm của mình chỉ có 6 học bổng phổ biến:

a. Học bổng Eiffel: rất khó để xin được vì yêu cầu điểm số cao, hồ sơ hoàn hảo và phải do giáo sư của trường bên Pháp nộp hồ sơ. Mình không đạt tiêu chí nào cả nên thôi, bỏ qua.

b.Học bổng Eramus: phải học từ Master 1 và phải học ở nhiều nước khác nhau, và điều này đòi hỏi tiếng Anh. Mình dốt anh văn, nên thôi, cũng bỏ qua.

d. Học bổng AUF: dành cho sinh viên khối Pháp ngữ thuộc AUF. Do mình học anh văn chuyên ngành ở Đại học và chỉ bắt đầu học tiếng Pháp theo phong trào ở trung tâm nên thành ra mình là dân ngoại đạo không thuộc khối pháp ngữ và mình không có thể apply cho học bổng này. Để apply hb AUF, bạn cần đăng kí học bổng và tham gia làm khóa luận tốt nghiệp bằng tiếng Pháp. Mình không làm ( thật ra là không đủ điều kiện làm) khóa luận, nên coi như không xét tới hb này.

f.Học bổng các trường ở Paris, mình không tìm hiểu kỹ

Sau khi đã có bằng ngoại ngữ, tìm hiểu học bổng và các giấy tờ cần thiết, trước khi bắt đầu năm cuối đại học, mình đã đem tất cả các hồ sơ, giấy tờ đi dịch sang tiếng Pháp (khoảng 3-4 bộ). Như vậy thì yên tâm mỗi khi cần sẽ có sẵn giấy tờ để nộp rồi.

3. Xin học bổng Tiến sĩ ở Pháp

Có 3 nguồn khác nhau để làm tiến sĩ ở Pháp :

a.Có sẵn kinh phí ở lab: cần liên hệ lab để xin làm PhD và thường phỏng vấn trực tiếp với người hướng dẫn đề tài. Năm mình học thạc sĩ, mình không biết có trường hợp này nên mình không tìm hiểu.

c.Các nguồn học bổng, mình đăng kí duy nhất học bổng của đại sứ quán Pháp ở Việt Nam. Bạn có thể apply khi bạn đang học thạc sĩ ở Pháp hoặc sau khi đã về Việt Nam.

Để xin học bổng tiến sĩ thì hồ sơ của bạn phải thật sự nổi bật và mình nghĩ nếu mình xin trực tiếp khi mình học thạc sĩ ở Pháp thì khả năng đậu học bổng là không có ( vì điềm số, thi lại và các điều kiện khác đều thua rất nhiều người). Nên mình đã tìm kiếm cơ hội cho riêng mình bằng cách :

-Mình rất thích viết luận bằng tiếng Pháp nên mình đã tham gia cuộc thi viết luận do đại sứ quán Pháp tổ chức, và may mắn lọt vào vòng phỏng vấn. Mình tham gia ngày hội giáo dục Pháp ngữ do CampusFrance tổ chức với tư cách là phiên dịch. Đây là một điểm nhấn nữa.

Như vậy, từ một bộ hồ sơ ít điểm nổi bật, mình đã tìm được những điểm mạnh cho hồ sơ của mình và mình đã đạt được học bổng đại sứ quán Pháp ở Việt Nam cho trình độ tiến sĩ.

Đây chỉ là những kinh nghiệm cá nhân của bản thân mình, có thể có nhiều sai sót về thông tin, mong các bạn thông cảm.

Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp phân vùng Languedoc Roussillon

Email: baovietvn2000@gmail.com

Học Tiến Sĩ Ở Mỹ

Quá trình học này mang lại cho mỗi cá nhân rất nhiều lợi ích như: cung cấp một lượng kiến thức chuyên môn lớn, phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành một cách hiện đại và bài bản…

Nhờ thế, sẽ có thêm nhiều nhà nghiên cứu có khả năng thực hiện các nghiên cứu mới, sáng tạo với mục tiêu đóng góp cho sự gia tăng của tri thức nhân loại trong quá trình giải quyết các bài toán của thực tiễn và khoa học. Bên cạnh kiến thức chuyên môn, các du học sinh còn học được rất nhiều từ văn hóa và cuộc sống hằng ngày trên đất khách.

Yêu cầu tiên quyết để được chấp nhận vào các chương trình PhD tại Mỹ là TOEFL và GRE/ GMAT. Điểm càng cao càng có nhiều lợi thế, càng có nhiều cơ hội xin các học bổng dạng trợ lý nghiên cứu hay giảng dạy (TA, RA – loại học bổng phổ biến cho nghiên cứu sinh). Bằng Master (thạc sĩ) không bắt buộc ở một số trường, tuy nhiên phổ biến các trường yêu cầu phải có Master trước khi học PhD nếu không phải bổ sung một số môn học. Điểm TOEFL dù cao (trên 600, thậm chí 650) thì cũng chỉ là điểm khởi đầu.

Một chương trình PhD của Mỹ thường bao gồm hai giai đoạn chính: 2-3 năm đầu học các chuyên đề (course work) và 2-4 năm sau làm luận án. Khác với một số trường của hệ thống Anh và Úc, khi đăng ký học PhD sinh viên phải có đề cương nghiên cứu, hệ thống của Mỹ không đặt nặng yêu cầu này. Quan điểm của họ cho rằng dù đã có bằng Master thì về mặt nghiên cứu sinh viên vẫn hoàn toàn mới mẻ, và do vậy cần ít nhất hai năm để đọc, nghiên cứu về chuyên ngành của mình trước khi có thể tự mình tiến hành nghiên cứu độc lập.

Giai đoạn học các chuyên đề hết sức vất vả vì yêu cầu rất cao và phải làm việc hết sức độc lập, đôi khi khá cô đơn. Khác với học đại học hay master mà học nhóm là phổ biến, học tiến sĩ chủ yếu tự mình nghiên cứu lĩnh vực mà mình quan tâm.

Giai đoạn này là khoảng thời gian hết sức quan trọng, cung cấp rất nhiều kiến thức và kỹ năng. Tạo cơ hội cho du học sinh tiếp cận với rất nhiều thông tin kiến thức, trường phái khác nhau trong chuyên ngành, từ đó xác định và lựa chọn chuyên nghành mình thích và muốn nghiên cứu. Trong mỗi chuyên đề (seminar), mỗi sinh viên phải đọc, nhận xét, phản biện hàng trăm bài báo chuyên môn, tranh luận trên lớp, thực hiện các nghiên cứu độc lập và viết các bài báo (academic papers) – mà yêu cầu chất lượng phải có thể được chấp nhận ở các hội thảo hay tạp chí khoa học, vì đây cũng chính là phương pháp đánh giá một nhà nghiên cứu của Mỹ và thế giới.

Sang giai đoạn hai, sinh viên phải dự một kỳ thi nói nôm na là thi hết những gì đã học (comprehensive examination). Mỗi kỳ thi gồm hai phần, viết và vấn đáp. Chỉ khi đã đạt ở kỳ thi viết mới chuyển sang kỳ thi vấn đáp. Tùy từng trường, nhưng nói chung kỳ thi này luôn được tổ chức nghiêm túc và yêu cầu cao để đảm bảo sinh viên có đủ kiến thức bước sang giai đoạn làm luận văn. Chẳng hạn ở chương trình tôi học thì thi rất vất vả, gồm đến ba phần.

Phần một là thi các kiến thức về thương mại quốc tế gồm ba bài thi trong ba ngày, mỗi bài ba giờ. Xong phần thi này thì đến phần thi chuyên ngành hẹp gồm hai bài thi trong hai ngày, mỗi bài 3-4 giờ. Sau khi có kết quả đạt ở hai phần thi này thì chuyển qua thi vấn đáp với hội đồng là tất cả giáo sư trong bộ môn chừng hơn một tiếng. Sinh viên thi rớt có thể thi lại một lần nữa, nếu vẫn không vượt qua thì đương nhiên bị loại khỏi chương trình.Tiếng Anh không chỉ cần thiết để tiếp cận các nguồn tài liệu khoa học, mà còn là phương tiện để trao đổi kiến thức thông qua viết báo khoa học và tham dự các hội thảo khoa học quốc tế.

Điểm thứ hai là cần cải thiện chất lượng và tăng trọng số cho các chuyên đề đang giảng dạy trong các chương trình PhD trong nước, vì đây là giai đoạn chuẩn bị hết sức quan trọng cho quá trình nghiên cứu sau này.

Điểm cuối cùng là để bậc học này đúng nghĩa là bậc học cao nhất thì cần đầu tư nhiều cho nó. Không thể cứ trách thầy cô và nghiên cứu sinh không làm tốt nhiệm vụ khi họ không có được các trang thiết bị tối thiểu như Internet, thư viện điện tử, phòng thí nghiệm để thực hiện các nghiên cứu của mình.

Vượt qua kỳ thi này, sinh viên có quyền chọn hội đồng hướng dẫn gồm tối thiểu ba giáo sư, trong đó có một giáo sư không thuộc bộ môn mà sinh viên học. Giai đoạn này là giai đoạn nghiên cứu độc lập, sinh viên tự lên kế hoạch và nhận sự hướng dẫn của các giáo sư.

Ở giai đoạn làm luận văn, sinh viên có thể bắt đầu tìm việc làm, thường là các vị trí trong trường đại học hay viện nghiên cứu. Quá trình tuyển dụng cũng rất khoa học.

Các trường và viện thường tổ chức phỏng vấn tại các hội thảo khoa học của từng chuyên ngành. Sinh viên chưa hoặc mới tốt nghiệp sẽ vừa tham dự hội thảo vừa tham dự phỏng vấn tìm việc. Các trường sau đó sẽ chọn một số ít ứng viên phù hợp và mời đến trường để tham quan (gọi là job talk). Các trường sẽ lo chi phí đi lại, ăn ở (thường thì 2-3 ngày).

Trong những ngày này ứng viên sẽ có những buổi trình bày cho hội đồng tuyển dụng và sinh viên, họ cũng sẽ tiếp xúc và được phỏng vấn bởi hầu hết nhân sự trong trường như trưởng khoa, phó khoa, giáo sư các bộ môn, sinh viên (PhD hay Master)…

Bên cạnh danh tiếng của trường và chương trình mà ứng viên theo học, thành tích khoa học thể hiện qua những bài báo đang thực hiện hay đã công bố là cơ sở chính để các trường chọn lựa. Điểm số trong quá trình học PhD không phải là vấn đề quan trọng, miễn là vượt qua 3,2 hoặc 3,5/4 tùy theo yêu cầu của mỗi trường. Các trường của Mỹ thường không giữ sinh viên lại làm việc sau khi tốt nghiệp mà nhận những PhD từ các trường khác. Đây cũng là một cách tiếp cận khá hay để thay đổi và làm mới không khí học thuật của các trường.

Về đào tạo PhD tại Việt Nam

Trình độ ngoại ngữ – đặc biệt là tiếng Anh – cần phải được đặc biệt đầu tư khi bước vào các chương trình PhD. Nếu không có ngoại ngữ thì gần như không thể thực hiện được các nghiên cứu mới vì không biết được bên ngoài đã làm gì, còn thiếu gì và mình nên làm gì.

Kinh Nghiệm Học Bổng Tiến Sĩ Toàn Phần Ở Anh

– Undergraduate: BA in International Economics, Học viện Ngoại Giao Việt Nam (2:1)

– Kinh nghiệm làm việc: không đáng kể, vì mình chưa có 1 permanent job nào, chỉ là các job trong khoảng thời gian vài tháng giữa các bậc học (mình tốt nghiệp ĐH xong là học Ths, giờ là TS luôn).

– Về học bổng: Full PhD scholarship (full tuition fees + annual maintenance stipend + research training support grant) awarded by Sheffield University Management School.

Mình thành công học bổng tiến sĩ là vì..

Nhìn qua CV của mình thì có thể thấy đó là 1 CV rất bình thường, nếu đặt cạnh CV của các ứng viên khác thì nguy cơ chìm nghỉm rất cao. Vậy nên theo cá nhân mình, lí do mình thành công trong apply học bổng là vì:

Tìm hiểu về một số học bổng toàn phần ở Anh

Chọn trường

Ở Anh thì có 2 cách để có admission vào chương trình PhD. 1 là có ý tưởng cho 1 research của riêng mình, viết proposal rồi gửi đi các trường, Giáo sư nào thấy interest in topic của mình thì sẽ hẹn lịch phỏng vấn, ok thì sẽ có offer. Cách 2 là apply trực tiếp vào các funded projects. Trường hợp của mình thì mình làm theo cách 1, tức là viết 1 proposal rồi gửi đi các trường mà có giáo sư có research interests tương tự và trường có offer học bổng cho international students (mình đã lọc danh sách các trường qua web chúng tôi

Chuẩn bị sớm

mình chuẩn bị hồ sơ, tập trung vào viết research proposal khá sớm, từ tháng 8/2014. Đến tháng 10 thì mình đã hoàn thành xong hồ sơ và gửi đi các trường, đến tháng 11 mình bắt đầu phỏng vấn với profs các trường và đến tháng 12 thì có offer. Sau khi có offer thì tiến hành apply học bổng. Việc chuẩn bị sớm đã giúp mình có nhiều thời gian chau chuốt cho bài luận xin học bổng và chuẩn bị cho buổi interview học bổng hơn

Chuẩn bị research proposal

Về research topic thì mình khuyên là các bạn nên nghĩ 1 vài topic và research methods, sau đấy liên hệ với các thầy đã từng dạy mình để tham khảo ý kiến xem topic và methods của mình có khả thi không trước khi bắt tay vào viết proposal. Việc viết proposal cũng sẽ tốn kha khá thời gian để hoàn thành và chỉnh sửa. 1 lưu ý nhỏ nhưng nhiều bạn hay quên đó là bên cạnh check lỗi chính tả, ngữ pháp, các bạn cần chú ý check cả citation và references (để cho chắc chắn thì nên dùng citation và references theo Harvard style).

Phỏng vấn học bổng

Nguồn: Theo Scholarshipplanet