Top 7 # Visa Định Cư Việt Nam Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 5/2023 # Top Trend | Phusongyeuthuong.org

Các Loại Visa Định Cư Mỹ Tại Việt Nam

Theo Luật Di dân Hoa Kỳ, visa định cư bao gồm 4 loại: visa dành cho thành viên trực hệ, visa dành cho thành viên gia đình, visa làm việc và visa trẻ lai.

1. Visa dành cho thành viên trực hệ:

Vợ/ chồng của công dân Hoa Kỳ

IR-1/CR-1

Con đẻ hay con riêng của vợ/ chồng công dân Hoa Kỳ, còn độc thân, dưới 21 tuổi

IR-2/CR-2

Con nuôi của công dân Hoa Kỳ

IR-3

Con nuôi của công dân Hoa Kỳ (được nhận nuôi ở Hoa Kỳ)

IR-4

Cha/ mẹ đẻ hay cha/ mẹ kế của công dân Hoa Kỳ

IR-5

Hôn phu (hôn thê) của công dân Hoa Kỳ

K-1

Vợ/ chồng và con riêng của vợ/ chồng công dân Hoa Kỳ

K-3

2. Visa dành cho thành viên gia đình:

Có một số loại visa dành cho các thành viên trong gia đình của công dân Hoa Kỳ và của Thường Trú Nhân. Số lượng visa cấp cho các loại visa này bị giới hạn hàng năm. Hồ sơ được giải quyết căn cứ vào thứ tự ngày mở hồ sơ tại Sở Di Trú Hoa Kỳ. Ngày mở hồ sơ được gọi là ngày ưu tiên.

Con còn độc thân của công dân Hoa Kỳ

F-1

Vợ/chồng và con còn độc thân dưới 21 tuổi của Thường trú nhân

F-2A

Thị thực không định cư cho vợ/chồng và con độc thân dưới 21 tuổi của Thường Trú Nhân để đến Hoa Kỳ chờ giải quyết hồ sơ bảo lãnh định cư F2A.

V

Con còn độc thân trên 21 tuổi của Thường trú nhân.

F-2B

Con đã kết hôn của công dân Hoa Kỳ

F-3

Anh, chị, em của công dân Hoa Kỳ

F-4

3. Visa làm việc:

Đối với thị thực định cư để làm việc, công ty bảo lãnh ở Hoa Kỳ cần có một yêu cầu công việc đặc biệt để xin bảo lãnh định cư Mỹ cho đương đơn. Thị thực làm việc bao gồm 5 loại. Có thể cần phải có chứng nhận của Bộ Lao Động Hoa Kỳ và một hồ sơ bảo lãnh được mở tại Sở Di Trú Hoa Kỳ để đương đơn xin thị thực làm việc.

4. Visa trẻ lai:

Có hai loại chương trình mà trẻ lai có thể nộp đơn để được định cư tại Hoa Kỳ là: the Amerasian Immigration Act và the Amerasian Homecoming Act.

Chú thích:

IR-1/ CR-1: Người vợ/ chồng đã kết hôn hợp pháp với công dân Hoa Kỳ. Do đó, hồ sơ bảo lãnh chỉ được mở sau khi có giấy chứng nhận kết hôn. Người bảo lãnh phải từ 18 tuổi trở lên và có tình trạng lưu trú ở Hoa Kỳ.

IR-2/ CR-2: Con đẻ hay con riêng của vợ/ chồng công dân Hoa Kỳ, còn độc thân, dưới 21 tuổi.

+ Con riêng chỉ đủ điều kiện xin định cư nếu cuộc hôn nhân của cha/ mẹ với người bảo lãnh được thiết lập trước khi con riêng được 18 tuổi.

+ Mỗi đương đơn xin định cư phải được mở một hồ sơ bảo lãnh riêng.

+ Hồ sơ bảo lãnh không có đương đơn đi kèm.

IR-5: Cha/ mẹ đẻ hay cha/ mẹ kế của công dân Hoa Kỳ.

+ Công dân Hoa Kỳ bảo lãnh hồ sơ phải từ 21 tuổi trở lên.

+ Cha/ mẹ kế chỉ đủ điều kiện xin định cư khi cuộc hôn nhân của họ với cha/ mẹ của người bảo lãnh được thiết lập trước khi người bảo lãnh được 18 tuổi.

+ Nếu đã được xin làm con nuôi hợp pháp, người bảo lãnh có thể không bảo lãnh được cho cha/ mẹ đẻ.

+ Mỗi đương đơn xin định cư phải có một hồ sơ bảo lãnh riêng.

K-1: Hôn phu/ hôn thê của công dân Hoa Kỳ. Công dân Hoa Kỳ có thể nộp đơn xin bảo lãnh cho hôn phu/ hôn thê nếu:

+ Cả hai đều có tình trạng hợp pháp để kết hôn;

+ Đương đơn phải kết hôn với người bảo lãnh trong vòng 90 ngày kể từ ngày người hôn phu/ hôn thê đến Hoa Kỳ với visa hôn phu/ hôn thê

+ Người hôn phu/ hôn thê sẽ chuyển sang tình trạng lưu trú lâu dài ở Hoa Kỳ sau khi kết hôn với người bảo lãnh; và

+ Người bảo lãnh và hôn phu/ hôn thê phải gặp gỡ trực tiếp trong vòng 2 hai năm vừa qua.

+ Con riêng còn độc thân, dưới 21 tuổi của hôn phu/ hôn thê của Công dân Hoa Kỳ có thể xin thị thực K-2 theo hồ sơ bảo lãnh K-1. Tên của (những) người con phải được ghi trong hồ sơ bảo lãnh.

+ Con của người hôn phu/ hôn thê của Công dân Hoa Kỳ (K-2) có thể đi cùng với cha/ mẹ (K-1) hay đi theo sau trong vòng một năm kể từ ngày cha/ mẹ (K-1) được cấp visa.

K-3: visa dành cho vợ/ chồng của Công dân Hoa Kỳ. Trước tiên, người bảo lãnh cần mở một hồ sơ bảo lãnh định cư (Mẫu đơn I-130) cho mỗi đương đơn, sau đó mới mở thêm một hồ sơ bảo lãnh K-3 (Mẫu đơn I-129F) cho vợ/ chồng và con còn độc thân, dưới 21 tuổi của K-3.

+ Đương đơn sẽ xin visa K-3 và visa phải được cấp tại nước mà người bảo lãnh kết hôn với đương đơn xin visa

+ Con của K-3 có thể đến Hoa Kỳ bằng thị thực K-4 với điều kiện đương đơn chính đã có thị thực K-3 hay đang giữ tình trạng K-3.

+ Không cần phải mở riêng một hồ sơ bảo lãnh (Mẫu đơn I-129F) cho con. Người con có thể cùng hồ sơ với đương đơn chính của hồ sơ bảo lãnh K-3.

F-1: Đương đơn loại visa này phải giữ tình trạng độc thân. Nếu như đương đơn kết hôn, loại visa sẽ chuyển thành diện F3 (Con đã kết hôn của công dân Hoa Kỳ).

F-2A: Vợ/ chồng và con còn độc thân, dưới 21 tuổi của Thường Trú Nhân. Hồ sơ bảo lãnh có thể bao gồm vợ/ chồng và con của Thường Trú Nhân. Tuy nhiên, khi người bảo lãnh nhập tịch Hoa Kỳ, mỗi người con sẽ cần có một hồ sơ riêng. Khi nhập quốc tịch, người bảo lãnh cần gửi bằng chứng nhập tịch của mình đến Trung tâm Thị thực Quốc gia (NVC) hay Lãnh sự quán.

V: Vợ/ chồng và con độc thân, dưới 21 tuổi của Thường Trú Nhân có thể xin thị thực diện V với các điều kiện:

+ Hồ sơ bảo lãnh định cư (mẫu I-130) được mở trước hay vào ngày 21 tháng 12 năm 2000.

+ Hồ sơ bảo lãnh mở đã được 3 năm trở lên;

+ Hồ sơ chưa đến lượt giải quyết;

+ Đương đơn chưa được phỏng vấn hay chưa được xếp lịch phỏng vấn xin visa định cư;

+ Hồ sơ bảo lãnh chưa được chuyển đến Đại sứ/ Lãnh sự quán Mỹ;

+ Đương đơn hội đủ điều kiện để xin visa định cư.

F-2B: Con còn độc thân, trên 21 tuổi của Thường Trú Nhân. Hồ sơ bảo lãnh sẽ không còn hiệu lực nếu như đương đơn kết hôn trước ngày người bảo lãnh nhập tịch Hoa Kỳ.

F-3: Con đã có gia đình của công dân Hoa Kỳ . Vợ/ chồng và con còn độc thân dưới 21 tuổi của đương đơn được xin visa định cư theo hồ sơ bảo lãnh của đương đơn.

F-4: Anh, chị, em của công dân Hoa Kỳ.

+ Người bảo lãnh (công dân Hoa Kỳ) phải từ 21 tuổi trở lên.

+ Vợ/chồng và con độc thân dưới 21 tuổi của đương đơn được xin visa định cư theo hồ sơ bảo lãnh của đương đơn.

Việt Nam Miễn Visa Cho Người Việt Định Cư Tại Nước Ngoài

Việt Nam vừa ban hành một nghị định mà theo đó sẽ miễn thị thực cho người Việt định cư ở nước ngoài và vợ/chồng, con của họ. Nghị định cũng miễn thị thực cho người nước ngoài là vợ/chồng, con của công dân Việt Nam.

Điều kiện miễn thị thực cho công dân Việt Nam

Theo bản tin của Thông tấn xã Việt Nam, quy định người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài là vợ/chồng, con của họ hoặc là của công dân Việt Nam muốn được miễn thị thực phải có các điều kiện như sau:

Có hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế còn hiệu lực ít nhất là một năm.

Có giấy tờ chứng minh là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, và người nước ngoài là vợ/chồng, con của người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc của công dân Việt Nam. Người đang tạm trú tại Việt Nam có nhu cầu cấp giấy miễn thị thực nộp hồ sơ theo quy định tại Cục Quản lý xuất nhập cảnh.

Giấy miễn thị thực được cấp riêng cho từng người. Trẻ em có chung hộ chiếu với cha hoặc mẹ được cấp giấy miễn thị thực chung với cha hoặc mẹ.

Trước đây các visa du lịch mà Việt Nam cấp cho công dân Hoa Kỳ chỉ có thời hạn tối đa là 3 tháng, ngay cả doanh nhân Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam cũng chỉ được cấp visa có thời hạn 3 tháng và chỉ có giá trị sử dụng để ra vào trong 1 lần. Giờ đây, Bộ trưởng văn hóa thể thao du lịch Việt Nam là ông Hoàng Tuấn Anh thông báo với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ là Việt Nam sẽ cấp cho công dân Mỹ visa có thời hạn 1 năm.

Nghị định miễn thị thực sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho người Việt ở nước ngoài trong việc đi lại thăm người thân, giải quyết việc riêng tại Việt Nam.

Thời hạn miễn thị thực tối đa không quá 5 năm và ngắn hơn thời hạn sử dụng của hộ chiếu và giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế của người được cấp ít nhất 6 tháng và sẽ được đóng vào sổ thông hành. Trừ một số trường hợp được cấp rời như hộ chiếu đã hết trang cấp thị thực; Hộ chiếu của nước chưa có quan hệ ngoại giao với Việt Nam; Giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế; theo đề nghị của người được cấp giấy miễn thị thực; vì lý do ngoại giao, quốc phòng, an ninh.

Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam Và Người Việt Nam Định Cư Ở Hawaii

Vừa đến thủ đô Honolulu nằm trên đảo Oahu của tiểu bang Hawaii, chúng tôi được Ban Đại Điện của giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam ở Honolulu đến đón tiếp do sự giới thiệu của LM quản nhiệm Cha Vincent Nguyễn Kiên. Phái đoàn có bà chủ tịch Nguyễn Kim Tuyết, ông phó Chủ tịch Trần Đình Cảnh và ông bà cố vấn Nguyễn văn Hùng.

Chúng tôi về văn phòng giáo xứ Việt Nam cùng chia sẻ chung văn phòng với giáo xứ đồng chính tòa Thánh Têrêsa. Tại đây, Ban đại diện đã trình bày cho biết tình hình sinh hoạt mục vụ và xã hội của người Việt Nam ở Honolulu cũng như các đảo khác.

Đặc biệt, chúng tôi có dịp ôn lại những vị linh mục Việt Nam đã và đang có mặt tại Hawaii, nhất là những linh mục đã giúp cho sự lớn mạnh của Cộng đoàn Công giáo Việt Nam.

Hiện nay, linh mục Vincent Nguyễn văn Kiên là chánh xứ của giáo xứ Việt Nam. Cha Kiên đã đến với Cộng đoàn từ năm 1998 và cho đến nay vẫn đang hăng hái hướng dẫn và điều hành công việc của giáo xứ Việt Nam ở Honolulu.

Ngược dòng thời gian, các linh mục sau đây đã giúp cộng đoàn và giáo xứ Việt Nam:

Thời gian 1975-1988 và 1995-1998, LM Joseph Cao Phương Kỷ là người đầu tiên sau biến cố tháng 4, 1975 đã đến Hawaii cùng với một số gia đình Công giáo Việt di tản đến đây. Ngài là đã được giáo phận địa phương cho thành lập Cộng đoàn CGVN là cử hành thánh lễ và các bí tích bằng tiếng Việt. Ngài coi sóc Cộng đoàn cho đến năm 1982 thì đi San Jose để nhận công tác dậy học trong đại chủng viện San José. Cha Kỷ lại trở về phục vụ cộng đoàn Honolulu lần thứ hai từ năm 1995 tới 1998.

Thời gian 1982-1990, Cha John Mai Nghị Luận được cử coi sóc Cộng đoàn CGVN ở Hawaii. Dước thời Cha Luận, Cộng đoàn Việt Nam được Đức giám mục sở tại cho phép trờ thành “Giáo Xứ Thể Nhân” (personal parish).

Thời gian 1990-1995, Cha Paul Hội thay thế cha John Mai Nghị Luận điều khiển và lo mục vụ cho Cộng đoàn giáo xứ Việt Nam.

Có thời gian Cộng đoàn CGVN ở Hawaii gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm được một linh mục Việt nam sẵn sàng đến phục vụ ở vùng hải đảo xa xôi này. Nhờ ơn Chúa thương hiện nay giáo phận Honolulu đã có 5 linh mục Việt nam và 2 đại chủng sinh. Ngoài Cha Kiên được chỉ định làm cha xứ Việt nam ở Honolulu, có Cha Phạm Khanh làm chánh xứ nhà thờ St. Stephen, còn có Cha Louis Hoàng Trung làm phó xứ Mỹ ở Maui, nhưng mỗi tháng cũng dâng thánh lễ Việt nam một lần cho Cộng đoàn Việt nam tại đảo Maui. Riêng Cha Hoàng Khánh là Cha chính phụ trách nhân sự linh mục của giáo phận Honolulu và Cha Nguyễn Phương làm trong Tòa Án giáo phận.

Người Công giáo Việt nam cũng rất hành diện vì 2 trong số 5 chủng sinh đang học cho giáo phận Honolulu là gốc người Việ nam, đó là thầy Lê Hùng và thầy Vũ Anh.

Sau khi tìm hiểu về tình hình mục vụ chung và công ăn việc làm của người Công giáo Việt Nam ở Hawaii, chúng tôi được hướng dẫn di thăm Tòa Giám mục và Trung tâm Tĩnh huấn của giáo phận và Dòng kín Carmelite. Khu vực Trung tâm Công giáo này rất đẹp và nằm trên một sườn đồi giữa phong cảnh rừng nhiệt đới và hoa lá xanh tươi, mát mẻ, yên tĩnh. Nhiều buỗi tĩnh tâm của các đoàn thể Việt nam được tổ chức ở đây hằng năm, nhất là những lớp tĩnh huấn cho đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Việt Nam.

Sau khi thăm Tòa Giám Mục và Trung Tâm Tĩnh Tâm, chúng tôi tới thăm một địa điểm du lịch nổi tiếng gần đó là Pali lookout trên sườn núi Koolau.

Tiếp tục cuộc thăm viếng chúng tôi lái xe theo đường vòng quanh đảo Oahu, đi qua các điểm Halona Blowhole, Vịnh Hanauma, và điểm ngắm thời danh Nuuamu Pali, nơi mà 400 chiến binh Hawaii thuộc bộ lạc đối lập đã bị đẩy xuống chân núi sâu thiệt mạng.

Đi một vòng thành phố, qua tòa thị chính, thăm phố Tầu, đền đài Iolani, và một số các điểm như State Capital Hall và Tòa nhà Governor.

Chiều đến, chúng tôi dâng thánh lễ cho Cộng đoàn Việt Nam tại thánh đường thánh Têrêsa, có khoảng 30 người Việt tham dự thánh lễ. Sau thánh lễ chúng tôi thăm anh chị em thuộc hội Legio Mariae đang có cuộc hội họp tại văn phòng sinh hoạt giáo xứ.

Chiều đến chúng tôi dũng bữa tối tại một nhà hàng Việt Nam ngay tại trung tâm thành phố, và sau đó đi dạo trong khu vực Waikiki với những sinh hoạt văn hóa sinh động của một thành phố du lịc vào bậc nhất của thế giới. Điểm đặc biệt nhất là, dù bạn đi thăm bất cứ nơi đâu trong các hải đảo ở Hawaii, bạn sẽ luôn luôn gặp những bộ mặt thân thiện và rất đông những người Nhật bản đang thăm viếng. Thực vậy từ xưa cho tới nay, Honolulu là điểm đến lôi cuốn của người Nhật và người Honolulu cũng rất thích khách du lịch Nhật vì họ rất chịu “chi tiền” rộng rãi, chứ không như “khách Mỹ chỉ đi ngó” mà thôi!

Các gia đình Việt Nam khác khi mới sang đây phải chiến đấu rất nhiều, nhưng nay sau 20, 30 năm, hầu hết đều có đời sống đầy đủ thoải mái, con cháu học hành tấn tới và nay cũng đã thành đạt trong môi trường kính tế mới của Hoa Kỳ.

Nhiều gia đình kể lại cho chúng tôi nghe về những câu truyện làm thế nào để sống còn và lại được thành công trong xã hội mới. Hầu hết là những câu truyện hy sinh, cần kiệm, và nỗ lực làm việc của cha mẹ khi nhìn về tương lai của con cái. Có một bà mẹ kia trong 20 năm qua chỉ buôn bán tại một cửa tiệm hoa quả nhỏ ở góc đường, nhưng nhờ sự thân thiện và đảm đang, đã có đủ sức để nuôi 5 người con đi học và nay đều đã thành đạt.

Anh chị em kể lại cho chúng tôi biết này từ cả mấy chục năm nay, nghề chính của anh em Việt Nam ở Hawaii là nghề lái taxi, một nghề trước đây kiếm được rất nhiều tiền, và nay cũng còn đến 65% người lái taxi là người Việt. Nghề khác lôi cuốn người Việt là những những chiếc xe bán đồ ăn chạy rảo chung quanh các phố. Mỗi chiếc xe là cửa hàng ăn nhỏ nhỏ phục vụ cho nhu cầu ăn và nước uống cho nhiều người bản xứ và những người đi làm, nhất là vào những buổi ăn trưa. Các nhà hàng bán đố ăn Việt Nam cũng rất thành công, ngày nay thì món phở, chả giò và gỏi cuốn là món mà nhiều người Honolulu đã rất quen thuộc. Nhiều tiệm ăn mở ra mục tiêu chính là phục vụ cho nhu cầu ăn uống của người bản xứ và ở ngay trung tâm sinh hoạt không có người Việt.

Sơ lược về sự hình thành giáo xứ Việt Nam ở Honolulu

Cùng với lớp người di tản vào cuối tháng 4, 1975, có một ít gia đình được đưa tới Honolulu để định cư, trong đó có Linh mục Cao Phương Kỷ. Không ai biết rõ số người thời gian đầu đến đây là bao nhiêu người, nhưng theo Ông Bút, một trong những người sống kỳ cựu ở đây cho biết là: “Lúc đầu số người đi lể độ chừng 50 chục người”, nhưng sau này khi biết có thánh lể Việt Nam thì ngay cả những người không Công giáo cũng tới tham dự các sinh hoạt chung cho vui… Ông kể lại vào năm 1977, khi ông tổ chức tiệc cưới của mình, mời cả mọi người Việt Nam ở trên đảo cho vui, không không biệt tôn giáo, tất cả có trên 100 người tham dự.

Theo hồ sơ còn lưu lại thì vào ngày Lễ Đức Mẹ 15-8-1975, Cha Kỷ được phép Tòa Giám mục và tuyên bố thành lập cộng đoàn Công Giáo Việt Nam ở Honolulu. Ngài qui tụ các gia đình Công giáo và ngày Chúa Nhật 24-8-1975 cử hành thánh lễ bằng tiếng Việt Nam đầu tiên tại nhà thờ Sacred Heart (Punahou) trên đường Wilder Avenue vào lúc 3:00pm, và và mỗi Chúa nhật hằng tuần tiếp tục có thánh lễ Việt Nam cho đến ngày 01- 8- 1980.

Từ ngày Chúa Nhật nhật -8- 1980 trở đi, thánh lễ bằng tiếng Việt nam được chuyển về nhà thờ Phụ Chính Tòa thánh Têrêsa trên đường 712 N. School street, cho tới ngày nay.

Hiện nay Cộng đoàn Công giáo Việt Nam tại Hawaii được lập thành giáo xứ thể nhân và có tên là Giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, văn phòng và mọi sinh hoạt giáo xứ chia sẽ chung với nhà thờ đồng Chính tòa thánh Têrêsa ờ Honolulu.

Số gia đình chính thức ghi danh là 540 gia đình với số nhân danh là 1500 người. Hệ thống tên và sinh hoạt bí tích của giáo dân được điện toán hóa và mỗi gia đình đều có Sổ gia đình.

Trung bình sự đóng góp của giáo dân Việt nam hằng tuần: tiền bao thư và tiền nguyệt liễm là $2.350.00

Giáo xứ được phân chia thành 4 Giáo Khu, gồm có:

-Giáo Khu I: Phaolô Lê Bảo Tịnh: Có 4 liên gia

-Giáo Khu II: Tôma Trần Văn Thiện: Phân chia thành 4 liên gia,

-Giáo Khu III: Emmanuel Lê Văn Phụng: Có 4 liên gia.

-Giáo Khu IV: Anê Lê thị Thành: Có 3 liên gia

Ngoài ra còn có 1 họ đạo bên đảo Maui, đó là Họ đạo Đức Mẹ La Vang với khoảng chừng 100 giáo dân.

Các sinh hoạt của Giáo xứ gồm có:

Sinh hoạt Mục Vụ:

– Thánh Lễ Chúa Nhật: Tối thứ Bảy 7:00pm; Chúa Nhật lúc 3:30pm

– Thánh Lễ ngày thường: Thứ 2,3,5 tại nhà thờ: 5:30pm

– Tối Thứ 4: 7:00pm luôn phiên 4 giáo khu tại tư gia.

Sinh hoạt đoàn thể và theo nhu cầu tuổi tác:

– Thiếu Nhi: Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Việt Nam: 130 em; Huynh Trưởng: 20 trưởng; Trợ tá: 15 em. Đoàn thể hóa và sinh hoạt chung giúp các em học giáo lý và Việt Ngữ.

– Ca đoàn: Sinh hoạt giới trẻ, phục vụ thánh lễ.

– Đoàn Thanh Niên Công Giáo Gioan-Phaolô II.

– Phong trào Cursillo có 40 cursillistas. Sinh hoạt hàng tháng

– Hội Các Bà Mẹ Công Giáo: 62 bà, nâng đỡ cuộc sống vai trò làm mẹ, và đảm đang nhiều sinh hoạt xã hội và là thành phàn đắc lực của đại gia đình giáo xứ.

– Legio Mariae có 4 tiểu đội; lập thành Curia Việt Nam.

– Hội Gia đình phạt tạ.

*Ngoài ra còn có các ban ngành: Phụng vụ, khánh tiết, thừa tác viên Thánh Thể, thừa tác viên đọc sách thánh, giaó lý thêm sức, xưng tội rước lễ lần đầu, giáo lý Tân Tòng, tài chánh và ban Xã Hội.

Sinh hoạt theo Khu xóm:

Đơn vị là liên gia, chừng 30 gia đình gần nhau, đọc kinh cầu nguyện với nhau trong khi vui khi buồn, như giỗ, người mới qua đời, thánh lễ ngày thứ 6… tạo nên mối tình thân thiện trong đời sống. Mỗi liên gia đều có thánh quan thầy để liên kết sinh hoạt với nhau.

Nói chung nhờ có tổ chức và Sinh hoạt chung đã tạo cho mọi giới, mọi gia đình có cơ hội gặp gỡ, gắn bó và nảy sinh tình thân thiện hiểu biết và thương yêu nhau.

Người Việt Nam Định Cư Ở Nước Ngoài Sở Hữu Nhà Ở Tại Việt Nam

I. Điều kiện sở hữu nhà ở tại Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài

1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài. Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài là người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.

2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì phải có giấy tờ theo quy định sau đây:

a) Trường hợp mang hộ chiếu Việt Nam thì phải còn giá trị và có đóng dấu kiểm chứng nhập cảnh của cơ quan quản lý xuất, nhập cảnh Việt Nam vào hộ chiếu;

b) Trường hợp mang hộ chiếu nước ngoài thì phải còn giá trị có đóng dấu kiểm chứng nhập cảnh của cơ quan quản lý xuất, nhập cảnh Việt Nam vào hộ chiếu và kèm theo giấy tờ chứng minh còn quốc tịch Việt Nam hoặc giấy tờ xác nhận là người gốc Việt Nam do Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, cơ quan quản lý về người Việt Nam ở nước ngoài cấp hoặc giấy tờ khác theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trường hợp cá nhân nước ngoài có giấy tờ xác nhận là gốc Việt Nam thì chỉ được quyền lựa chọn một đối tượng áp dụng là người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài để xác định quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam.

3. Có nhà ở hợp pháp thông qua các hình thức: mua, thuê mua nhà ở thương mại của doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh bất động sản; mua, nhận tặng cho, nhận đổi, nhận thừa kế nhà ở của hộ gia đình, cá nhân; nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại được phép bán nền để tự tổ chức xây dựng nhà ở theo quy định của pháp luật.

4. Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài nếu không được nhập cảnh vào Việt Nam mà được tặng cho hoặc được thừa kế nhà ở tại Việt Nam thì không được công nhận quyền sở hữu nhà ở nhưng được trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác bán hoặc tặng cho nhà ở.

II. Quyền của chủ sở hữu nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài

1. Có quyền bất khả xâm phạm về nhà ở thuộc sở hữu hợp pháp của mình.

2. Sử dụng nhà ở vào mục đích để ở và các mục đích khác mà luật không cấm.

3. Được cấp Giấy chứng nhận đối với nhà ở thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình theo quy định.

4. Bán, chuyển nhượng hợp đồng mua bán, cho thuê, cho thuê mua, tặng cho, đổi, để thừa kế, thế chấp, góp vốn, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở; trường hợp tặng cho, để thừa kế nhà ở cho các đối tượng không thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì các đối tượng này chỉ được hưởng giá trị của nhà ở đó.

5. Sử dụng chung các công trình tiện ích công cộng trong khu nhà ở đó theo quy định

6. Bảo trì, cải tạo, phá dỡ, xây dựng lại nhà ở theo quy định.

7. Được bồi thường theo quy định của luật khi Nhà nước phá dỡ, trưng mua, trưng dụng nhà ở hoặc được Nhà nước thanh toán theo giá thị trường khi Nhà nước mua trước nhà ở thuộc sở hữu hợp pháp của mình vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai.

8. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện đối với các hành vi vi phạm quyền sở hữu hợp pháp của mình và các hành vi khác vi phạm pháp luật về nhà ở.

III. Nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà ở và người sử dụng nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài 

1. Sử dụng nhà ở đúng mục đích quy định; lập và lưu trữ hồ sơ về nhà ở thuộc sở hữu của mình.

2. Thực hiện việc phòng cháy, chữa cháy, bảo đảm vệ sinh, môi trường, trật tự an toàn xã hội theo quy định của pháp luật.

3. Thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật khi bán, chuyển nhượng hợp đồng mua bán, cho thuê, cho thuê mua, tặng cho, đổi, để thừa kế, thế chấp, góp vốn, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở; đối với giao dịch nhà ở là tài sản chung của vợ chồng thì còn phải thực hiện theo các quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

4. Thực hiện đúng quy định của pháp luật và không được làm ảnh hưởng hoặc gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác khi bảo trì, cải tạo, phá dỡ, xây dựng lại nhà ở.

5. Đóng bảo hiểm cháy, nổ đối với nhà ở thuộc diện bắt buộc phải tham gia bảo hiểm cháy, nổ theo quy định của pháp luật về phòng cháy, chữa cháy và pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.

6. Chấp hành quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật về việc xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về nhà ở, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, phá dỡ nhà ở khi Nhà nước thu hồi đất, giải tỏa nhà ở, trưng mua, trưng dụng, mua trước nhà ở.

8. Thực hiện nghĩa vụ tài chính cho Nhà nước khi được công nhận quyền sở hữu nhà ở, khi thực hiện các giao dịch và trong quá trình sử dụng nhà ở theo quy định của pháp luật.